Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Thần tiên truyện
bành 彭
dt. bành tổ. Theo Thần tiên truyện, bành tổ là một người họ tiên tên khanh, là cháu xa đời vua Chuyên Húc. Vua Nghiêu phong cho ông đất đại thành (tức bành thành, từ châu) vì thế nên gọi ông là bành tổ. Trải qua nhà Hạ đến cuối nhà ân, ông đã 767 tuổi mà vẫn còn khoẻ, được mời ra giữ chức Đại phu. Từ nhỏ, ông tính điềm tĩnh, không thích công danh phú quý, chỉ chuyên chú việc dưỡng sinh. Khi phải ra làm quan, ông thường cáo ốm ở nhà, không dự gì đến chính sự. Bành được thương thua: con tạo hoá, diều bay cá dảy: đạo tự nhiên. (Tự thán 103.3).
hoá 化
đgt. đổi thay, biến hoá. Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hoá, âu còn nợ chúa cùng cha. (Thuật hứng 54.7).
đgt. biến thành một vật. Từ khuở hoá rồng càng lạ nữa, chúa xuân gẫm càng huyễn thay. (Trúc thi 223.3). Sách Thần tiên truyện ghi: Phí Trường Phòng tu tiên, cưỡi gậy trúc về rồi vứt đi, gậy biến thành rồng xanh. [NTN 2008: 270]
dt. trong tạo hoá. Trẻ dầu chơi con tạo hoá, già lọ phục thuốc trường sinh (Tự thán 78.5).
thương hải 滄海
dt. đc. biển xanh, nói tắt từ câu thương hải tang điền 桑田滄海. Cát Hồng đời Tấn trong Thần tiên truyện phần Ma cô ghi : “Ma cô tự nói rằng: từ lúc thiếp đợi đến nay, đã thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu rồi.” (麻姑自説云: 接侍以來,已見東海三為桑田), sau dùng chữ thương hải tang điền để trỏ những việc biến thiên lớn trong cuộc đời. Văn này gẫm thấy mới thon von, thương hải hay khao, thiết thạch mòn. (Thuật hứng 49.2, 62.5).